Thụy hiệu, miếu hiệu Minh_Tư_Tông

Ngày 6 tháng 5 âm lịch năm Sùng Trinh thứ 17 (Thanh Thuận Trị nguyên niên), Duệ Thân vương Đa Nhĩ Cổn lấy cựu thần nhà Minh Lý Minh Duệ làm Lễ bộ Thị lang, phụ trách việc tế táng cho Đại hành Hoàng đế, ban đầu đặt thụy hiệu là Khâm Thiên Thủ Đạo Mẫn Nghị Đôn Kiệm Hoằng Văn Tương Vũ Thể Nhân Trí Hiếu Đoan Hoàng đế (欽天守道敏毅敦儉弘文襄武體仁致孝端皇帝), miếu hiệu là Hoài Tông (懷宗) [38][39].

Hoằng Quang Đế nhà Nam Minh đặt thụy hiệu là Thiệu Thiên Dịch Đạo Cương Minh Khác Kiệm Quỹ Văn Phấn Vũ Đôn Nhân Mậu Hiếu Liệt Hoàng đế (紹天繹道剛明恪儉揆文奮武敦仁懋孝烈皇帝), miếu hiệu là Tư Tông (思宗). Tháng 2 Hoằng Quang nguyên niên, cải miếu hiệu thành Nghị Tông (毅宗) [40]. Đường vương Chu Duật Kiện nối ngôi, lại cải miếu hiệu thành Uy Tông (威宗).

Nhà Thanh đặt miếu hiệu cho Sùng Trinh là Hoài Tông, nhưng theo lễ thì triều vua sau đối với vua triều trước không đặt miếu hiệu mà chỉ đặt thụy hiệu[41], nên vào tháng 11 năm Thuận Trị thứ 16 (1659) đã thay nội dung bia của lăng tẩm, chỉ đặt thụy hiệu cho ông là Trang Liệt Mẫn Hoàng đế (莊烈愍皇帝) [38][39], do đó các sách vở đời Thanh đều gọi tắt là Trang Liệt Đế hoặc Minh Mẫn Đế.

Liên quan